1. Ba giá Mẫu
Tuyệt đối không được mở khăn. Không có khăn phủ diện
màu vàng. Không mặc áo Mẫu, nếu mặc thì phải có áo bản mệnh ở trong. Giá
Mẫu đệ nhất, đệ nhị lễ hương sống; giá Mẫu đệ tam lễ hương chín.
2. Phật, vua cha Ngọc Hoàng, Mẫu Địa, Mẫu Cửu, công đồng thánh Mẫu
Trong hầu đồng không có hầu Phật, vua cha Ngọc Hoàng và công đồng thánh Mẫu.
3. Áo bản mệnh và khăn phủ diện
Là
cái gốc, cơ bản cao nhất trong hầu đồng, vì vậy bắt buộc phải có. Hiện
nay có một số đối tượng mặc áo Mẫu để hầu Mẫu còn áo bản mệnh được cúng
lễ khai chứng đàng hoàng thì vứt đi đâu, áo Mẫu ai “chứng” mà hầu. Một
số kẻ còn ngông cuồng hơn, khác người hơn là dùng khăn phủ diện màu
vàng. Tôi không hiểu, khăn vàng này chắc là bóng Phật về chứng để hầu
Mẫu vì Mẫu là bồ tát, trong khi đó Phật lại không ngự đồng thì về
“chứng” ở đâu. Đối với đạo Mẫu phải được đạo trưởng pháp sư dẫn thỉnh,
thay quyền Phật thánh loan giá chứng lễ.
4. Hầu nhà Trần
Hầu Đức
ông đệ tam mới lên đai thượng. Cô Đại Hoàng ngự áo vàng. Nhà Trần không
ngồi ghế, trừ khi bắt tà để tra xét tà ma. Hành động ngồi ghế là bất
kính với 3 giá Mẫu.
5. Các quan
Khi các quan về phải đi mạng chéo,
thắt khăn chữ “phúc” hoặc lên nét. Không được đi hia đội mũ, đó là đóng
kịch diễn tuồng. Quan đệ nhất thuộc dòng di tu nên khi ngự đồng, khai
quang làm lễ, không ngự vui hiến tửu. Quan đệ tứ dòng khâm sai cũng vậy.
Khi có quan thày hầu chứng 2 giá quan trên rồi thì đệ tử không được hầu
nữa. Khi khai quang bắt buộc phải dùng khăn tấu hương. Giá các quan Ông
hoàng, Cậu phải lễ 4 lần, mỗi lễ lễ 3 vái ở giữa, 2 vái 2 bên, 1 vái
tất cả. Các giá trên lễ phải dùng khăn tấu hương và hương. Mỗi lần lễ là
biểu hiện dâng hương về mỗi phủ một lần. Khi tiến lùi để lễ thì lùi 2
tiến 3. Mặt ngửng lên nhìn công đồng nhưng khi quỳ lễ phải cúi mặt nhắm
mắt. Bốn lần lễ không được bỏ hương; nếu chỉ lễ một lần phủ đệ nhất, ba
phủ còn lại dùng khăn tầu hương thì khác nào có bát mà không có gạo, có
cốc mà không có nước, đó là hành động bất kính. Trừ những vị đồng cựu
không đứng lên được thì phải tiến hương lên công đồng, sau đó dùng tay
chống gối đứng lên – “ốm tha già thải” , đó là được miễn giảm chứ không
phải lệ như thế.
Cúng tế trong hầu bóng khác hành tế trong lễ hội.
Cúng tế trong hầu bóng, lùi 2 bước tiến 3 bước dứt khoát, rõ ràng nhưng
hơi nhanh biểu hiện sự làm việc tâu đồi tiến cúng, là bóng quan về làm
việc. Hành tế trong lễ hội biểu hiện sự đồng tiến và là quan viên chứ
không phải bóng quan, vì vậy đi theo nhịp trống, có chủ tế, tiến hương
tiến hoa riêng biệt. Đó là người trần cúng tiến lễ nghi.
Giá các quan
gấp khăn tấu hương và châm hương để khai quang chứ không dùng khăn tay
hay khăn mặt (khăn tay, khăn mặt chỉ để lau chùi mà không thể để thay
thế khăn tấu hương). Quan tuần tiễn đàn phải rải gạo muối
Múa kiếm múa đao không được chỉ vào công đồng, không được cứa cổ mình.
6. Tất cả các hành động lễ ngự, làm việc, khăn áo đều phải xin phép và chứng hương
Chứng
người, chứng ngựa, chứng voi, chứng tam đầu đều phải phủ khăn tấu hương
lên đầu sau đó khai quang lễ 5 lễ, vỗ vào hông voi, ngựa 3 lần.
Các
quan, Ông hoàng, Cậu ngồi xếp vòng tròn hoặc vắt chân chữ ngũ, đeo 2
mạng chéo, nét buộc chữ phúc hoặc khăn mỏ rìu. Các giá Chầu bà và Cô đều
phải quỳ hành lễ, khai quang bằng quạt và hương chín. Một số giá như
giá cô Cả, cô Bơ về hiến hương không múa cờ thần cờ hội (cờ thần thì để
treo, cờ hội chỉ có diễn viên hề trên sân khấu mới múa chứ trong hầu
bóng chỉ đi ngọn cờ hồng bằng khăn phủ diện).
Đầu xuân thì không đi
cờ kiếm, đi ngọn cờ hồng, chỉ dùng cờ lệnh kiếm lệnh khi khai đền lập
phủ. Đầu xuân cũng kiêng mặc đồ trắng kể cả giá bản đền là thoải đều
phải mặc áo đỏ khăn đỏ thể hiện ngày vui đầu năm phù hợp với phong tục
truyền thống Việt Nam. Hiện nay do sự không hiểu biết và bảo thủ, các vị
đồng bóng cứ khăng khăng cho mình là đúng nên đã đảo lộn hết trật tự
khuôn phép.
Chỉ có 5 vị quan trên công đồng nên không có thêm vị quan nào khác ??? vị quan bản đền bản cảnh.
Không có cái gọi là Lục phủ tôn ông trong đồng bóng.
Không có cái gọi là Mẫu lâm cung trong đồng bóng.
7. Các giá Chầu và các giá Cô
Các
điệu múa giá Chầu giá Cô phải nhẹ nhàng phải nhẹ nhàng. Các Chầu phải
lên khăn củ ấu, chữ nhân, nón buồm. Các Cô lên khăn hoa, khăn vành dây,
nét. Cô Bơ có thể lên nét 3 màu.
Giá các Chầu các Cô về khai quang
đứng quát hiến quạt hiến hương chứ không nghiêng ngả không múa. Giá chầu
bà Đệ nhị và chầu Lục về chỉ rải lộc cho bản đền chứ không đi chợ. Giá
chầu Năm chầu Bé rải lộc, đi chợ. Giá chầu Mười cưỡi ngựa đeo cờ kiếm,
không đi giày. Đầu xuân giá chầu Đệ nhị về rải lộc rải hoa. Vào hè giá
tiên cô về giải dịch (tiền và hoa quả). Các thứ đó không ăn được phải
thả sông hoặc ngã ba đường. Thường thường về giải dịch là giá cô Đôi
hoặc cô Sáu.
Bất kể khi hiến tửu, thuốc hay nước đều phải dùng khăn
hoặc quạt che miệng. Không rải tiền xuống đất để chèo đò. Đó là rải tiền
cho người chết chứ thánh không cần. Giá cô Bơ cài tiền đò bên hông và
cài 1 nén hương sống bên tai. Hầu các giá đều không được quay đáy vào
công đồng, không được xỉa xói vào công đồng.
Hầu đồng giá thứ nhất
phải tung khăn, tẩy khẩu, phải đội bát nhang trước mới được mở phủ, nếu
ốm phải cúng tam phủ thục mệnh trước mới mở phủ. Nơi đội bát nhang là
chốn tổ, nơi thờ đó là quan trọng nhất. Nơi mở phủ là mượn cảnh để mở,
là thứ hai. Các cụ gọi là “một chốn đôi nơi”. Muốn mở phủ phải có thày
khai đàn mở phủ. Mở phủ phải dùng kiếm để mở. Nếu không có căn kim chi
thì quan Đệ nhị và Đệ tam về mở phủ, gọi là mở chéo. Còn căn kim chi đôi
nước thì cả bốn quan đều dùng kiếm. quan Đệ nhất và Đệ tứ không múa
kiếm mà chỉ làm lễ kiếm lệnh để khai phủ thôi. Phủ tượng trưng cho giếng
nước của từng phủ “trồng cây, đắp nấm, đào giếng, gieo mầm”. Vì vậy
phải dùng kiếm để khai phủ chứ không dùng gáo, làm sao đào giếng bằng
gáo được. Người ta gọi là khai phủ chứ không phải gọi theo ngôn từ bịa
đặt là động phủ, chọc phủ (không hiểu họ động cái gì, chọc cái gì??).
Hầu
đồng phải có sớ hầu, nếu “một chốn đôi nơi” thì phải có sớ bay về các
nơi mở phủ, đội bát nhang, nhưng trước đó phải có lễ đến trình báo, sau
khi hầu xong 3 ngày mới được lễ tạ. Nếu ở xa thì lễ tạ ngay nhưng khi về
chốn tổ vẫn phải lễ tạ bái vọng.
Trước khi hầu đồng phải xin phép
thánh, chủ nhang, đạo trưởng, cung văn, pháp sư và bách gia trăm họ. hầu
xong phải vái tạ Phật thánh và có lời cảm ơn bách gia. Khi định hầu
thánh phải đến xin phép thày, mua lễ lễ thánh xin ngày. Khi mời quan
thày, chủ nhang, đồng đền, pháp sư đều phải có lễ đến lễ thánh sau đó
mới mời thày, mời đồng. Lộc đưa các vị đó và những vị đồng cựu (24 năm
đổ ra mới được gọi là đồng cựu nếu không có điện thờ) phải được đưa bằng
đĩa.
Hầu đồng không nên trùm khăn buồm quá dài. Đó là khăn phủ
tượng chứ không phải khăn hầu. Giá các ông Hoàng đi hèo đi thơ. Giá ông
Chín không đeo kích cầm batoong trông như thày bói mù dở mà ông là người
nho sĩ tu Phật. Không bao giờ người ta đi dép, đi guốc mộc trên sập hầu
cả.
Hầu đồng phải nghiêm trang thành kính nhất tâm, vui vẻ hoan hỉ,
không xúi bẩy nhau làm những điều không hiểu biết. không nói xấu, lừa
đảo nhau, không dựa vào đồng bóng làm những điều bất nhân bất nghĩa,
không nên so bì ghen tị, hồ nghi, đồi hỏi, tranh giành nhau về lộc.
Những kẻ lợi dụng đồng bóng là lừa đảo, ác ma. Sự đua đòi, ghen ghét, thù hận chỉ đem lại khổ đau cho bản thân.
Trên
đây là những điều tôi được chư tổ và đạo trưởng chỉ dạy. Tôi thống kê
lại những phần chính còn trong mỗi giá đồng ở phần trên tôi cũng đã nói
về những nguyên tắc đó rồi. Ngưỡng mong quý vị tu tâm tích đức, giữ gìn
bản sắc, đi theo đúng đường lối, không bị mù quáng rồi hậu quả nghiêm
trọng khó lường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét